1. Lễ hội Chol Chnam Thmay là gì?
Tết Chol-chnam-thmay được
tổ chức vào đầu tháng Pôsăk, còn gọi là tháng Chét theo Phật lịch Tiểu thừa.
Nhưng dù vào tháng nào theo lịch Khmer, Tết này cũng rơi vào các ngày 14, 15 và
16 tháng 4 Dương lịch (nếu năm nhuần thì bắt đầu từ ngày 13- 4 Dương lịch). Đây
là thời gian khô ráo, mùa màng đã thu hoạch xong, người dân trong giai đoạn
nông nhàn nên tha hồ vui Tết. Ăn tết xong là chuẩn bị đón mùa mưa, gieo sạ lúa.
Tết Chol-chnam- thmay
còn gọi là tết “chịu tuổi”, diễn ra trong ba ngày với những nghi lễ khác nhau.
Ngày thứ nhất gọi là Sang-kran có nghĩa là “bước đi”. Ngày thứ hai gọi là
Won-bot có nghĩa là “thiếu hoặc thừa”. Ngày thứ ba gọi là Lon-sătk có nghĩa là
“tăng lên”. Trước tết mọi người sơn phết lại các ngôi chùa, và bàn thờ tổ tiên.
Các
vị sư dùng nước tắm Phật ban phước lành cho phật tử
Cũng như tết cổ truyền
của các dân tộc khác, Chol- chnam- thmay của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ tuy
có cùng ý nghĩa nhưng lại được tổ chức với vài tập tục khác biệt theo bản sắc
văn hóa của mình. Phần lớn, lễ Chôl Chnăm Thmây được tổ chức ở chùa, với sự tham
gia của các vị sư sãi, các vị Acha và những người Khmer sinh sống trong các
phum sóc chung quanh chùa.
2. Tết Chol Chnam Thmay 2021 ngày nào?
Cũng giống như một số
nước Đông Nam Á theo đạo Phật tiểu thừa, thời điểm diễn ra Chol Chnam Thmay được
căn cứ theo Phật lịch, thường là giữa tháng 4 Dương lịch. Theo thời tiết ở miền
Tây thì đây là thời gian khô ráo, mùa màng đã thu hoạch xong, người dân nghỉ
ngơi chờ sa mưa để chuẩn bị cho vụ mùa mới. Năm 2021, Chol Chnam Thmay sẽ diễn
ra từ các ngày 14 đến 16 tháng 4.
Đắp
núi cát trong khuôn viên chùa cầu an
3. Các hoạt động trong Tết Chol Chnam Thmay
Gia đình nào cũng vậy,
dù rất nghèo cũng có nồi bánh nùm-chrụt (gần giống bánh tét của người Kinh Nam
Bộ), và bánh nùm-tiên (gần giống bánh ít Nam Bộ). Hai loại bánh này tượng trưng
cho sự no ấm, làm ăn thịnh vượng, được mùa của người Khmer, nó cũng như bánh
chưng, bánh dầy của người Kinh vùng đồng bằng Bắc Bộ dùng trong ngày tết Nguyên
đán. Ngoài ra còn có các loại bánh như: nùm-chết (bánh dừa nhân chuối), nùm- niềng-
nóc, sùm-bóc-cháp (bánh bột nhân dừa)
Vào đêm giao thừa mọi
nhà đều thắp đèn sáng, cúng bánh, trái cây, hương hoa trên bàn thờ tổ tiên, để
tiễn thần Tê-vô-đa cũ về nhà trời, và rước thần Tê-vô-đa mới xuống ăn tết, cai
quản đất đai, thổ trạch trong một năm. Người ta tin rằng thần Tê-vô-đa được nhà
Trời sai xuống để cai quản dương thế trong một năm. Hết năm cũ nhà trời lại sai
vị thần Tê-vô-đa khác xuống thay thế.
Chol Chnam Thmay bắt
nguồn từ câu chuyện thách đố của Thần KaBưl MaHaPrum trong truyền thuyết và được
diễn ra liên tục trong 03 ngày với các hoạt động khác nhau:
Ngày đầu tiên: Chol
Sangkran Chmay
Người dân sẽ tắm gội sạch
sẽ, đội cỗ lên chùa làm lễ rước Đại lịch và đọc kinh chúc mừng năm mới.
Ngày thứ hai: Virak
Wanabat
Các gia đình sẽ dâng
cơm mời các nhà sư và làm lễ đắp núi cát để tìm phúc duyên, cầu mong mưa thuận
gió hòa, mùa màng bội thu.
Ngày thứ ba: Tngay
Leang Saka
Người dân chuẩn bị nước
thơm được làm từ nước mưa và hoa tươi rồi đến chùa làm lễ tắm Đức Phật.
Trong ba ngày Tết, nam
nữ thanh niên Khmer vui chơi ca hát thoả thích các điệu dù-kê, rô-băm, múa
lăm-thôn… tại sân chùa. Đây cũng là dịp để họ tìm hiểu nhau, hò hẹn và phô bày
tình cảm, và nhiều đôi đã nên vợ nên chồng. Vui nhất là hát “dù-kê” (còn gọi là
hát lò-khôn). Hai bên nam nữ hát đối đáp (còn gọi xác-cô-va) kết hợp ném
Chơ-hung. Đó là những chiếc khăn màu sắc sặc sỡ kết tròn lại như hình trái bóng
rồi nam nữ ném đi, ném lại cho nhau cùng bắt như người Thái ở Tây Bắc ném
“còn”. Phần thưởng thường thuộc về phái nữ. Bởi họ tin rằng nữ gắn liền với mặt
trăng, với nước, là biểu tượng cho mùa màng năm mới tốt tươi. Trong lễ hội này
còn có nhiều nam nữ thanh niên người Kinh, người Hoa, người Chăm cùng vui chơi.
Ngoài ra còn có các trò chơi như kéo co, hát bo-suông (hát giao duyên), đánh
bóng chuyền…
Để đón Chol Chnam
Thmay, giống như Tết Nguyên đán của người Kinh, người Khmer thường chuẩn bị trước
nửa tháng từ đầu tháng 4 với nhiều loại bánh trái ngon để cúng Phật. Ngày nay họ
vẫn duy trì một nghi thức độc đáo là “Đắp núi cát” với ngưỡng vọng nhằm tích
phước, tích đức cho cuộc sống.